Hậu quả và ý nghĩa Loạn_An_Sử

Loạn An Sử chấm dứt nhưng ảnh hưởng với vương triều Đường và xã hội Trung Quốc còn kéo dài rất nhiều năm sau. Loạn An Sử trên thực tế đã vạch đôi hai thời kỳ lớn của nhà Đường, đánh dấu một bước ngoặt lớn, để lại hậu quả lớn lao trong lịch sử Trung Quốc vì nó kéo theo trên mọi lĩnh vực một sự chuyển hướng rõ rệt[77].

Tàn phá

Loạn An Sử khiến nền kinh tế Trung Quốc đương thời ở phía bắc bị tàn phá nặng nề. Nhân dân chịu sự cướp bóc của tất cả các lực lượng quân sự đương thời, không chỉ bên Đường, bên Yên mà cả ngoại binh.

Vốn mang bản tính hung hãn của người Hồ, lính kỵ binh và bộ binh Đại Yên tản mát gần như khắp nơi, đánh thành chiếm đất, phá nhà cửa và cướp bóc. Riêng quân Hồi Hộtnhà Đường mượn sức đánh An - Sử, vì được Đường Túc Tông giao hẹn sẽ cho lấy của cải, nên khi tiến vào Lạc Dương đã thả sức giết người cướp của. Số dân thường bị quân Hồi Hột giết lên tới hàng vạn, lửa cháy 10 hôm chưa tắt[49].

Ngay cả quân đội nhà Đường, nhất là đạo quân Sóc Phương và Thần Sách, trong khi đánh chiếm Lạc Dương, Trịnh châu, Biện châu, Nhữ châu, họ xem đây là nơi "phản quân" chiếm đóng, cũng tùy tiện cướp phá trong 3 tháng, làm cho nhà cửa những nơi này trống trơn, nhân dân trong thành phải dùng giấy làm áo để mặc[49]. Không chỉ khi thắng trận, ngay cả khi thua ở Nghiệp Thành, quân triều đình trên đường rút chạy cũng thừa cơ cướp của dân[78], quan lại địa phương không thể ngăn chặn được[79].

Chỉ có vùng Giang Nam (vốn chỉ có cuộc nổi dậy của Vĩnh vương Lý Lân nhanh chóng bị dẹp) là ít bị tàn phá nhất do quân Yên bị chặn lâu ngày ở Tuy Dương không thể tiến xuống phía nam[80].

Thiệt hại kinh tế

Chiến tranh không chỉ khiến người dân mất nhà cửa, ruộng vườn mà còn tàn phá nền kinh tế Đại Đường đang hưng thịnh. Những công trình thủy lợi chung ở miền bắc bị phá hoại nghiêm trọng, phải mất rất nhiều năm mới có thể khôi phục. Ngành thủ công nghiệp, tiêu biểu là nghề dệt miền bắc cũng bị sụp đổ không vươn dậy được, khiến gánh nặng cung ứng tơ lụa cho chính quyền trung ương nhà Đường chuyển xuống phía nam, vùng Giang - Hoài[80].

Do sự thỏa thuận với người Hồi Hột về việc hợp tác quân sự chống lại quân Đại Yên, sau khi thắng trận, người Hồi Hột đưa cho nhà Đường mấy vạn con ngựa xấu, đổi lại nhà Đường cung cấp nhiều vải lụa và lãnh loại tốt. Chính quyền nhà Đường vơ vét rất nhiều tơ lụa từ phía nam để mang đổi cho Hồi Hột, với giá trao đổi là 1 ngựa = 40-50 xấp lụa[80].

Nông nghiệp bị tàn phá, kho thóc trống rỗng, việc cung ứng thóc gạo của triều đình trung ương cũng phải trông chờ vào miền Giang Đông[80].

Chết chóc

Những trận cướp bóc của cải của quân Đại Yên, quân Đường và quân Hồi Hột đều kèm theo giết chóc. Nhân dân không chỉ chết vì đi lính và lao dịch cho các chính quyền tranh chấp mà còn là nạn nhân của những lần "thắng trận, bại trận" của các bên.

Trước loạn An Sử, triều đình nhà Đường thống kê toàn quốc năm 755 được 8.914.709 hộ với dân số 52.913.309 người; sau chiến loạn, số hộ chỉ còn 1.930.100 và dân số chỉ còn 6.993.860 người, nghĩa là giảm đi tới hơn 7 lần (còn 13%)[81][82]. Theo nguồn tài liệu khác, số dân trước cuộc chiến tương đương với nguồn kể trên, còn số dân sau cuộc chiến cao hơn, là 16,9 triệu người và 2,9 triệu hộ[83]. Dù là con số thống kê nào cũng cho thấy mức độ tổn hại nhân lực vô cùng lớn, nhiều nhất thì dân số Trung Quốc cũng chỉ còn không tới 1/3 so với trước cuộc chiến.

Khu vực chịu tổn thất nhiều nhất là phía bắc, thuộc lưu vực sông Hoàng Hà[84]. Bốn khu vực bị phá hoại nặng nề nhất trong cuộc chiến là Lạc Dương, Trường An, Biện châu và Trịnh châu. Lạc Dương sau cuộc chiến được mô tả như sau[79]:

"Cung điện đều bị thiêu trụi, mười chỉ còn lại 1… dân số chỉ còn lại khoảng 1000 hộ, đường đi đầy cỏ gai, tiếng sài lang tru ghê rợn. Nếu đi tiếp 1000 dặm về phía đông, thì không còn thấy bóng người cũng như khói nấu cơm nữa, hoàn toàn là cảnh tiêu điều…"

Còn khung cảnh kinh đô Trường An sau cuộc chiến[79]:

Xóm làng vắng ngắt, trăm nhà không còn được một

Có tới 70% địa phương trong cả nước bị giảm hộ khẩu đến 90%, điển hình là Dịch châu tại Hà Bắc vốn có 44200 hộ trước loạn, sau chỉ còn 569 hộ (1,2%). Thời Đường Huyền Tông, số phủ châu có 10 vạn hộ trở lên là 10, sau loạn An Sử chỉ còn 2 châu phủ là Kinh Triệu và Thái Nguyên[84].

Phần lớn dân cư phương bắc ly tán, nhà cửa bị đốt phá, không còn người ở, xương trắng đầy đồng, hàng ngàn dặm tiêu điều. Nhiều người dân còn sống sót cũng phải bỏ nhà cửa quê hương ra đi, nhiều người chết trên đường tha hương[85].

Nạn phiên trấn cát cứ

Hậu quả lâu dài về mặt chính trị đối với nhà Đường, chính là nạn cát cứ của các phiên trấn. Tình hình này có liên quan tới chính sách khoan hồng được xem là không hợp lý của Đường Đại Tông[85].

Năm 763, khi Sử Triều Nghĩa thất thế, các bộ tướng cùng nhau đầu hàng. Trong hoàn cảnh đó, tướng Bộc Cố Hoài Ân sợ nếu dẹp hết các thế lực từng theo Đại Yên trước đây xong xuôi thì triều đình không còn trọng dụng mình nữa, nên đã đề nghị nhà Đường cho giữ lại những bộ tướng cũ của họ An và họ Sử như Tiết Bão, Lý Bảo Thần để họ cai quản mấy trấn vùng Hà Bắc[85]. Đường Đại Tông vì muốn nhanh chóng khôi phục nền thái bình nên chấp nhận kiến nghị đó. Vì vậy tại vùng Hà Sóc về căn bản vẫn do các tướng cũ của Đại Yên chiếm cứ.

Trong khi đó, các Tiết độ sứ của triều đình có công dẹp loạn mới được bổ nhiệm cai trị ở trung nguyên cũng được nhà Đường quá nhân nhượng, với ý định làm đối trọng giữ cân bằng với thế lực của các Tiết độ sứ ở biên trấn, nên dần dần thế lực các Tiết độ sứ này cũng ngày càng lớn, triều đình không thể khống chế được nữa.

Các phiên trấn này chỉ thần phục nhà Đường trên danh nghĩa. Họ nắm thực quyền rất lớn về chính trị, quân sự, kinh tế trong lãnh địa của mình. Hơn nữa, ngôi vị của họ lại được hưởng tập quyền, có thể truyền cho con cháu, anh em. Ngoài ra khi các thủ lĩnh mới có thể được thủ hạ tôn làm "lưu hậu" để cai quản vùng bản địa. Họ cùng nhau ép triều đình trung ương phải nhìn nhận, do đó trên thực tế họ trở thành những vùng lãnh địa của quân phiệt phong kiến có tính độc lập[85].

Các chính quyền phiên trấn, vì quyền lợi đã xảy ra xung đột liên miên mà chính quyền trung ương không có biện pháp nào ngăn chặn. Vì vậy hoàn cảnh của hoàng đế nhà Đường lúc đó rất giống với thiên tử nhà Chu thời Xuân Thu, bề ngoài được tôn nhưng thực ra không có quyền hành[85].

Nhà Đường sau loạn lạc không thể khôi phục lại thời hưng thịnh như trước đây nữa. Tình trạng phiên trấn cát cứ khiến đế quốc bị xé lẻ. Thời Đường Huyền Tông chỉ có 10 Tiết độ sứ, sau đó tăng thành trên 40 trấn lớn nhỏ[77]. Tình trạng này kéo dài duy trì hơn 100 năm sau cho tới khi nhà Đường sụp đổ (907)[86].

Cương thổ và biên giới

Loạn An Sử khiến nhà Đường suy yếu, lùi bước trên khắp các hướng của đế chế Đường. Nhà Đường mất quyền kiểm soát vùng Thông Lĩnh, nước Hồi Hột thừa cơ phát triển trên đất Cam Túc. Thổ Phiên bành trướng ở các ốc đảo Trung Á, Thanh Hải, Cam Túc. Từ năm 790 nhà Đường còn mất hẳn phía tây Vũ Môn quan. Tại phía đông bắc, từ thế kỷ 7, Tân La cường thịnh trên bán đảo Triều Tiên, độc lập với nhà Đường. Phía tây nam, nước Nam Chiếu và các tiểu quốc Tạng - Miến phát triển từ năm 750[77].

Do chính quyền trung ương suy yếu, không kiểm soát được các trấn, trong đó có các trấn vùng biên, sự cai quản đối với biên giới cũng rất lỏng lẻo[87]. Khu vực quản lý của triều đình ngày càng bị thu hẹp.

Năng lực bảo vệ và quản lý vùng biên cương của nhà Đường ngày càng yếu. Sau loạn An Sử, những người trấn giữ biên giới phần lớn là già yếu, tàn phế. Vì vậy các tộc Thổ Phiên, Nam Chiếu thừa cơ đến lấn cướp nhiều lần.

Đây được coi như là giai đoạn quan trọng của lịch sử Việt Nam, bởi vùng đất An Nam của người Việt gần như không bị tàn phá trong suốt thời kỳ loạn An Sử. Chính sự suy yếu của nhà Đường đã tạo cơ hội cho người Việt giành lại độc lập, do vùng biên giới ngày một thu hẹp của Trung Quốc và việc Trung Quốc gần như mất quyền quản lý An Nam. Dẫu vậy, cũng phải gần 150 năm sau của nổi loạn An Sử, nhà nước Việt Nam mới thực sự độc lập khỏi Trung Quốc.

Di chuyển kinh tế và văn hóa

Cuộc chiến loạn kéo dài làm cho khu vực sông Hoàng Hà vốn là nơi có nền kinh tế - văn hóa phát triển nhất Trung Quốc trở nên tiêu điều xơ xác, đâu đâu cũng thấy hoang vu[79]. Do vật chất bị phá hoại, vật giá tăng vọt, giá cao lên tới gấp 300 lần, còn giá vải vóc tăng lên gấp 20 lần trước cuộc chiến[87].

Nhà Đường đổi phép tô dung điệu thành phép lưỡng thuế để thích ứng với tình hình chính trị xã hội và kinh tế mới. Chế độ quân điền sụp đổ dẫn tới sự phá sản của tiểu nông, càng thúc đẩy việc di cư, lưu vong để kiếm sống.

Nhiều người di cư xuống phía nam – khu vực sông Trường Giang và sông Hán Thủy - lánh nạn, trong đó có một bộ phận quan liêu bên cạnh đại đa số là nhân dân lao động. Nhân khẩu dời xuống phía nam nhập chung vào với dân cư di dời từ thời Lưỡng Tấn Nam Bắc triều. Điều đó làm cho trung tâm không chỉ kinh tế mà cả văn hóa từ phương bắc dời xuống phía nam[71]. Từ cuối thế kỷ 8, kinh tế nhà Đường chủ yếu dựa vào miền vựa lúa Giang – Hoài, trung tâm kinh tế di chuyển từ lưu vực sông Vị về mạn Hàng châu[77][88]. Đây được xem không chỉ là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nhà Đường mà còn là bước ngoặt quan trọng trong xã hội phong kiến Trung Quốc[87].